Marc 21 DDC KHTG KD KHTG CD

MỤC LỤC LIÊN HỢP VIETBIBLIO

Giới hạn kết quả tìm kiếm bằng dấu *:
Ví dụ: Toán 2, xuất bản năm 2010, Bộ sách Cánh Diều => Nhập: Toán 5*2010*Cánh Diều
Tên sách hoặc ISBN:
Thư viện:
Tìm thấy: 2 tài liệu với từ khoá phạm trù lý học

Phần mềm dành cho TV huyện và trường học1487057. MÔNG BỒI NGUYÊN
    Hệ thống phạm trù lý học/ Mông Bồi Nguyên; Tạ Phú Chinh, Nguyễn Văn Đức dịch.- H.: Khoa học xã hội, 1998.- 1015tr.; 21cm.- (Tủ sách tinh hoa về các phạm trù triết học Trung Quốc)
    Tên sách ngoài bìa ghi: Hệ thống phạm trù lý học - triết học phương Đông
    Tóm tắt: Những vấn đề cơ bản của hệ thống phạm trù lý học, trong đó giới thiệu bộ phận lý khí, bộ phận tâm linh, bộ phận tri hành và bộ phận thiên nhân, nghiên cứu về toàn bộ kết cấu của lý học và vấn đề phát triển của hình thái triết học, các đặc trưng tư duy của nền văn hoá truyền thống từ góc độ phạm trù học
{Triết học; phạm trù lý học; triết học Trung Quốc; triết học phương Đông; } |Triết học; phạm trù lý học; triết học Trung Quốc; triết học phương Đông; | [Vai trò: Mông Bồi Nguyên; Nguyễn Văn Đức; Tạ Phú Chinh; ]
DDC: 181.1 /Price: 59.000đ /Nguồn thư mục: [TBDI].

Phần mềm dành cho TV huyện và trường học1258856. MÔNG BỒI NGUYÊN
    Hệ thống phạm trù lý học: Triết học phương Đông/ Mông Bồi Nguyên ; Người dịch: Tạ Phú Chinh, Nguyễn Văn Đức.- H.: Khoa học xã hội, 1998.- 1015tr; 24cm.- (Tủ sách tinh hoa về các phạm trù triết học Trung Quốc)
    Tóm tắt: Lý học là một hình thái triết học, có một hệ thống phạm trù hoàn chỉnh. Giới thiệu đặc trưng cơ bản của hệ thống phạm trù lý học: quan hệ giữa con người và tự nhiên, bao gồm các vấn đề quan hệ giữa chủ thể và khách thể
{Triết học; Trung Quốc; lí học; phạm trù; } |Triết học; Trung Quốc; lí học; phạm trù; | [Vai trò: Nguyễn Văn Đức; Tạ Phú Chinh; ]
/Nguồn thư mục: [NLV].

Trang sau |
VUC là mục lục liên hợp, dành cho các thư viện sử dụng hệ thống tự động hóa thư viện VietBiblio có thể tìm kiếm và khai thác nhanh chóng dữ liệu thư mục bao gồm hình ảnh bìa sách.
Với VietBiblio, Hơn 5.000 thư viện có quy mô nhỏ ở Việt Nam đã nhanh chóng thực hiện chuyển đổi số trong điều kiện còn khó khăn về kinh phí và nguồn nhân lực.